VÌ SAO NGƯỜI NHẬT LUÔN LO NGHĨ PHÒNG XA?

VÌ SAO NGƯỜI NHẬT LUÔN LO NGHĨ PHÒNG XA?

Bài viết của Trương Khởi Hoài (Trung Quốc), Nguyễn Hải Hoành giới thiệu, lược dịch và ghi chú trong ngoặc vuông.

“Khó có thể so sánh người Nhật với những dân tộc tuy có chịu sức ép tương tự nhưng không có truyền thống văn hóa, phó mặc số trời, hoặc các dân tộc tuy có truyền thống văn hóa nhưng lại thiếu sức ép từ bên trong hoặc bên ngoài.” — Dân tộc Việt Nam ta thuộc loại nào, thưa bạn?

VÌ SAO NGƯỜI NHẬT LUÔN LO NGHĨ PHÒNG XA?
Ảnh: Sóng thần năm 2011 ở Nhật.

Lời người dịch:

Năm 2006, bộ phim tài liệu “Nước lớn trỗi dậy” chiếu trên Đài Truyền hình Trung ương Bắc Kinh làm rung chuyển dư luận Trung Quốc. Bộ phim đã đáp ứng nguyện vọng khao khát của 1,3 tỷ dân nước này: từ lâu họ đã vô cùng quan tâm vấn đề “Phục hưng trung Hoa” và “Trung Quốc trỗi dậy”. Trong bối cảnh cả nước sôi nổi say sưa bàn luận chuyện “Nước lớn trỗi dậy” như thế, tờ Thời báo Hoàn cầu (Trung Quốc) ngày 12/1/2008 đăng bài “Người Nhật không thích bàn chuyện trỗi dậy” của Trương Khởi Hoài – Phó Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quan hệ hai bờ eo biển Nhật Bản. Bài báo đã gây tiếng vang trong dư luận Trung Quốc. Tác giả muốn cảnh tỉnh đồng bào mình, nhấn mạnh họ nên học các phẩm chất ưu tú của dân tộc Nhật. Bài báo thể hiện tâm trạng của giới trí thức Trung Quốc trước các vấn đề tồn tại của nước họ. (Nguyễn Hải Hoành)

Chìm đắm hay trỗi dậy?

Hơn trăm năm nay, Trung Quốc không ngừng đưa ra thuyết “Trỗi dậy”, “Nhảy vọt”, “Thời hưng thịnh”, thế nhưng Nhật Bản – quốc gia cách Trung Quốc một eo biển hẹp, nước phương Đông duy nhất được coi là “nước lớn trỗi dậy” – thì lại có tâm trạng khác với Trung Quốc. Đầu thập niên 70 – thế kỷ XX, Nhật Bản vượt qua các nước lớn Tây Âu nhảy lên vị trí cường quốc kinh tế số Hai thế giới.

Nhưng hồi ấy, người Nhật lại chẳng bàn luận gì về “trỗi dậy”. Ngược lại, họ bàn nhiều về đề tài “Nhật Bản chìm đắm” – tên một tiểu thuyết khoa học viễn tưởng hai tập xuất bản năm 1975 của nhà văn Sakyo Komatsu [tên sách tiếng Nhật Nihon chinbotsu, tiếng Anh Sinking of Japan, chủ đề xoay quanh vụ việc một hòn đảo của Nhật sau một đêm bỗng dưng bị chìm xuống biển và các đảo khác trong cả nước cũng có nguy cơ như vậy. Chính quyền và nhân dân ra sức điều tra nguyên nhân và đối phó, ứng cứu].

Sách in mỗi tập 2 triệu bản, sau đó cải biên thành phim, thu hút gần 9 triệu lượt người xem, làm chấn động đảo quốc này.

Ba chục năm sau, năm 2006, kinh tế Nhật lại tăng trưởng 5 năm liền, là một thành tích đáng phấn khởi. Thế mà người Nhật lại bỏ ra 2 tỷ Yên tái dựng bộ phim “Nhật Bản chìm đắm”, có sử dụng công nghệ máy tính và được lực lượng chính quyền, quân đội hợp tác làm cho bộ phim có nhiều cảnh hấp dẫn hơn. Phim chiếu từ tháng 7/2006 trên 316 rạp chiếu bóng trong cả nước, chỉ trong 3 ngày đã thu được 9 tỷ Yên tiền bán vé, một lần nữa làm cả xã hội Nhật náo động. Đồng thời, nước này còn xuất bản một loạt tác phẩm tuyên truyền về các nguy cơ Nhật Bản đang đối mặt.

Ý thức lo âu phòng xa của người Nhật có lịch sử lâu đời. Chính phủ và các nhân sĩ thường xuyên nhắc nhở dân chúng thấy rõ những nguy cơ như nước biển dâng sẽ nhấn chìm đảo quốc này, tình trạng thiếu tài nguyên, môi trường sinh tồn khó khăn… nhằm kích thích ý thức lo âu phòng xa của mọi người. Ngay cả khi kinh tế phát triển tốt, thực sự “trỗi dậy”, cũng rất hiếm thấy người Nhật tuyên truyền ầm ĩ, huênh hoang tự ca ngợi dân tộc mình. Ngược lại, họ càng tỉnh táo, bình tĩnh hơn, luôn tự kiểm điểm bản thân và suy nghĩ lo xa. Điều này đáng để chúng ta tham khảo học tập.

Mấy năm nay, tuy kinh tế phát triển tốt nhưng khi đưa tin về vấn đề đó, báo, đài Nhật đều giữ thái độ tự chê trách bản thân. Trong những bài xã luận chúc mừng năm mới chỉ thấy nói nhiều về “cảnh báo”. Các doanh nhân lớn đều giữ thái độ khiêm tốn, khiến người ta quên mất một sự thật là nước Nhật có GDP đầu người cao tới 40.000 USD. Khi Nhật thoát khỏi “10 năm đánh mất”, cựu Tổng Giám đốc hãng Toyota giội một gáo nước lạnh lên đầu đồng bào ông : “Nhật Bản muốn làm minh chủ châu Á ư? Không có tư cách và cũng chẳng có sức mà làm đâu!”

Thực ra, Nhật Bản không bao giờ có thể “chìm” được. Họ nói thế chỉ là để trau dồi ý thức lo âu phòng xa cho dân chúng mà thôi. Dĩ nhiên chuyện ấy có liên quan tới việc nền kinh tế nước này đã chín muồi. Mặt khác, đó còn là do tầng lớp tinh hoa của xã hội Nhật bao giờ cũng phát huy được tác dụng cân bằng của một cái “van điều tiết ổn định”, nhất là khi tình hình nước nhà tốt đẹp, tinh thần dân chúng phấn khởi.

Cội nguồn của nỗi lo xa

Ý thức lo âu phòng xa của người Nhật bắt nguồn từ nỗi lo môi trường sinh tồn khách quan. Họ thường nói : “Đất nước nhỏ hẹp, môi trường sống ác liệt, khan hiếm tài nguyên, lắm thiên tai”. [ở Nhật động đất là chuyện cơm bữa].

Một thí dụ : Lúc nào cũng thấy họ bàn tán om xòm vấn đề thiếu năng lượng, ngay cả người giàu cũng dè xẻn từng giọt nước, từng kWh điện. Mùa hè vừa qua trời nóng bức thế mà họ đề xuất nhiệt độ từ 28 độ C trở lên mới dùng điều hòa nhiệt độ. Có cơ quan xí nghiệp còn niêm phong cầu dao cấp điện của hệ thống làm mát. Thực ra nước này đâu có thiếu điện, ngành điện chưa bao giờ mất điện, cắt điện hoặc hạn chế dùng điện. Tính căn cơ, dè xẻn ấy khiến người nước ngoài vừa kính trọng vừa… ớn ghét người Nhật.

Ý thức nói trên còn bắt nguồn từ sức ép của xã hội. Thí dụ một nghiên cứu mới đây cho thấy, đến năm 2055, số dân Nhật chỉ còn 89,93 triệu người, người già chiếm 40%, gấp đôi tỷ lệ hiện nay.

Ngoài ra, Nhật cũng đang chịu sức ép từ các nước xung quanh:

  • Vũ khí hạt nhân của Triều Tiên,
  • Tư tưởng chống Nhật của người Hàn Quốc,
  • Vấn đề 4 đảo miền Bắc [bị Nga chiếm từ sau Thế chiến II, gọi là Quần đảo Kuril],
  • Sự “trỗi dậy” của Trung Quốc.
  • Đặc biệt, việc Mỹ đóng quân trên đất Nhật 60 năm nay khiến người Nhật cảm thấy khó chịu nhất, tuy việc đó lại có lợi nhất cho họ.

Hơn nữa, truyền thống văn hóa Nhật cũng là nguồn gốc của tâm lý lo âu phòng xa nói trên. Trong lịch sử, người Nhật từng tiếp thu sâu sắc tư tưởng Khổng Mạnh, thí dụ hai câu : “Kẻ không nghĩ xa tất có nỗi lo buồn gần”, “Sống biết lo xa, chết sẽ yên lành” rất được họ tôn sùng. Do có các nguồn gốc sâu xa nói trên, ý thức lo âu phòng xa của người Nhật rất ổn định, không dễ bị mất đi khi hoàn cảnh có chuyển biến tốt. Khó có thể so sánh người Nhật với những dân tộc tuy có chịu sức ép tương tự nhưng không có truyền thống văn hóa, phó mặc số trời, hoặc các dân tộc tuy có truyền thống văn hóa nhưng lại thiếu sức ép từ bên trong hoặc bên ngoài.

Ba bài học lớn trong quá trình hiện đại hóa

Muốn hiểu được ý thức lo âu phòng xa của người Nhật, cần tìm hiểu 3 bài học lớn trong quá trình hiện đại hóa đầy trắc trở của họ.

– Bài học đầu tiên xảy ra vào giữa thế kỷ XIX [1854], khi tàu chiến của đô đốc hải quân Mỹ Perry tiến vào vịnh Tokyo ép Nhật ký hiệp ước ngoại giao và buôn bán với Mỹ. Hồi ấy, do thấy một nước lớn như Trung Quốc mà còn không chống đỡ nổi sự xâm lăng của phương Tây, phải mở cửa cho họ vào, Nhật đã chọn đường lối khiêm tốn cúi đầu nhận làm học trò phương Tây. Bài học này đã chuyển biến thành ý thức lo âu phòng xa và phấn đấu tự cường của người Nhật.

– Thế nhưng khi mạnh lên rồi thì họ lại chuyển ý thức nói trên thành tư tưởng bành trướng, đi xâm chiếm các nước. Ngay cả khi chiến sự bất lợi, chính phủ và báo đài Nhật vẫn điên cuồng tuyên truyền hiếu chiến. Sau khi thua to trong Thế chiến II, nhiều người Nhật phê phán tầng lớp tinh hoa nước này đã thiếu bình tĩnh, tỉnh táo, khách quan và tự cảnh tỉnh, làm cho Nhật trở thành kẻ thù của toàn nhân loại. Thất bại nói trên là bài học lịch sử thứ hai. Từ đó, Nhật rời bỏ hàng ngũ nước lớn chính trị trên thế giới, bắt đầu xây dựng lại từ số không, nhịn nhục cần cù lao động với ý thức lo âu phòng xa.

– Sau khi trở thành cường quốc kinh tế số Hai, cuối thập niên 80, bong bóng kinh tế nước này bắt đầu phình to, nhiều công ty Nhật đầu tư quy mô lớn ra nước ngoài, khiến báo Mỹ kêu la “lại một trận Trân Châu Cảng mới”. Nhưng lần làm liều ấy chỉ khiến cho bong bóng kinh tế Nhật chóng tan vỡ : hàng loạt công ty lớn và nhà băng phá sản, thị trường nhà đất sụp đổ, kinh tế Nhật rơi vào tình trạng đình trệ và suy thoái kéo dài suốt “10 năm mất mát”. Trong lúc đó, kinh tế Mỹ và Trung Quốc lại vững vàng tăng trưởng, điều đó làm cho người Nhật một lần nữa bình tâm trở lại, tăng cường trau dồi ý thức lo âu phòng xa.

Mỗi thất bại đều được người Nhật chuyển hóa thành ý thức tự cảnh tỉnh : Nóng đầu, không lượng sức mình mà làm liều thì sẽ bị vấp ngã, ăn quả đắng. Ngược lại, tỉnh táo bình tâm, miệt mài lao động thì sẽ có lối thoát. Nhật Bản là một tấm gương tốt của Trung Quốc, nhiều cái họ từng trải qua, Trung Quốc cũng có thể sẽ trải qua với phương thức khác. Các bài học lịch sử và kinh nghiệm của người hàng xóm này rất đáng để Trung Quốc chú ý.

Einstein năm 1922 thăm Japan và nhận xét như sau về người Nhật: “Japanese unostentatious, decent, altogether very appealing,” Einstein writes, adopting a more flattering tone, though in some instances it veers into eugenic territory.

“Pure souls as nowhere else among people. One has to love and admire this country.”

Bài viết được chúng tôi sưu tầm trên mạng, không rõ tác giả. Nếu bạn biết tác giả bài viết là ai, xin để lại bình luận để chúng tôi cập nhật. Xin cảm ơn!


Posted

in

by

Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *